Nếu tàu đường sắt tốc độ cao chạy 1.541km từ Hà Nội vào TP HCM dừng lại ở tất cả 23 ga thì không thể đạt được tốc độ 350 km/h.
Tàu đường sắt tốc độ cao chủ yếu để chở khách
Sáng ngày 13/11, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 8, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải (GTVT) Nguyễn Văn Thắng đã trình bày tờ trình phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) trên trục Bắc – Nam.
Theo Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, tuyến ĐSTĐC trên trục Bắc – Nam chưa được Quốc hội thông qua vào năm 2010 do còn có ý kiến băn khoăn về tốc độ, phương án khai thác, nguồn lực đầu tư trong bối cảnh quy mô nền kinh tế tại thời điểm năm 2010 thấp (GDP là 147 tỷ USD), nợ công ở mức cao (56,6% GDP).
Tuy nhiên, đến nay với nhu cầu vận tải ngày càng tăng cao, quy mô nền kinh tế năm 2023 đạt 430 tỷ USD, gấp gần 3 lần so với năm 2010; nợ công ở mức thấp khoảng 37% GDP; dự kiến thời điểm triển khai xây dựng vào năm 2027, quy mô nền kinh tế ước đạt 564 tỷ USD nên nguồn lực để đầu tư không còn là trở ngại lớn.
Theo Tờ trình về dự án này, việc xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải, góp phần tái cơ cấu thị phần vận tải trên hành lang Bắc – Nam một cách tối ưu, bền vững, tạo tiền đề, động lực cho phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tuyến ĐSTĐC bắt đầu tại Thành phố Hà Nội (ga Ngọc Hồi) và kết thúc tại Thành phố Hồ Chí Minh (ga Thủ Thiêm), đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố; chiều dài tuyến khoảng 1.541 km. Về quy mô đầu tư, Dự án xây dựng mới tuyến đường sắt đôi, khổ 1.435 mm, điện khí hóa, tốc độ thiết kế 350 km/h, tải trọng 22,5 tấn/trục; vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng.
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải cho biết, Dự án đường sắt cao tốc này được thiết kế với công nghệ đường ray hiện đại, cho phép tàu đạt tốc độ tối đa lên đến 350km/h. Mặc dù thiết kế ban đầu cho phép vận chuyển cả hành khách và hàng hóa, nhưng trong quá trình vận hành, tàu sẽ ưu tiên tập trung vào vận chuyển hành khách và phục vụ các mục tiêu an ninh quốc phòng khi cần thiết. Việc vận chuyển hàng hóa sẽ được thực hiện thông qua hệ thống đường sắt hiện hữu, đường bộ và đường biển ven bờ…
Theo tính toán của Bộ Giao thông Vận tải, nhu cầu vận chuyển hàng hóa từ Bắc vào Nam trong tương lai (đến năm 2050) là rất lớn, ước tính khoảng 18 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, với việc nâng cấp và dành riêng đường sắt hiện hữu cho mục đích vận chuyển hàng hóa, cùng với sự hỗ trợ của hệ thống vận tải đường bộ và đường biển ven bờ, chúng ta hoàn toàn có thể đáp ứng được nhu cầu này. Đặc biệt, đường biển ven bờ được đánh giá là phương thức vận chuyển hàng hóa hiệu quả và tiết kiệm chi phí nhất, đặc biệt phù hợp với các tuyến đường dài.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nêu rõ, các nghiên cứu quốc tế cũng cho thấy việc kết hợp vận chuyển hành khách và hàng hóa trên cùng một tuyến đường sắt sẽ làm giảm hiệu quả và hiệu suất vận chuyển hành khách. “Tàu cao tốc được thiết kế để vận chuyển hành khách với tốc độ cao, trong khi tàu hàng lại có tốc độ di chuyển chậm hơn nhiều (từ 80-100km/h). Vì vậy, việc phân chia rõ ràng các loại hình vận tải sẽ giúp tối ưu hóa hiệu quả sử dụng hệ thống đường sắt”, ông Thắng nhấn mạnh.
Từ Hà Nội vào TP HCM chỉ dừng ở 5 ga nếu chạy 350km/h
Giải trình thêm liên quan đến tốc độ tàu chạy, Bộ trưởng Giao thông Vận tải cho biết trên tuyến đường sắt tốc độ cao sẽ có hai loại tàu với vận tốc khác nhau. Loại tàu thứ nhất chạy tốc độ 350 km/h, chỉ dừng lại ở 5 ga trên toàn tuyến và đan xen lẫn nhau. Khi đó, thời gian tàu chạy 5,5 giờ từ Hà Nội đến TP HCM là đã bao gồm thời gian dừng ở các ga. “Nếu dừng lại ở tất cả 23 ga thì không thể đạt được tốc độ 350 km/h”, Bộ trưởng Thắng nói.
Loại tàu thứ hai chạy tốc độ bình quân 280 km/h sẽ dừng lại ở tất cả các ga theo từng đoạn tuyến cho người dân lựa chọn như Hà Nội – Vinh, Nha Trang – TP HCM…
Như vậy để đạt được “Giấc mơ ăn sáng Hà Nội, ăn trưa TP HCM”, hành khách buộc phải lựa chọn loại tàu số 1, chạy tốc độ 350km/h và dừng lại ở 5 ga.
Thảo luận tại Tổ, các ý kiến ĐBQH đều tán thành cao chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam với những cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và lý do đã được nêu tại Tờ trình số 767/TTr-CP. Đồng thời, nhấn mạnh, đây là công trình có tính biểu tượng, ý nghĩa chiến lược, đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, để đảm bảo tiến độ, tính khả thi, các ĐBQH cũng góp ý nhiều nội dung cụ thể liên quan tới: Nguồn vốn cho Dự án; hiệu quả kinh tế – xã hội, tài chính của Dự án; các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt triển khai đầu tư Dự án;…
Tham gia thảo luận, đại biểu Dương Khắc Mai – Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông nêu thực tế, việc triển khai thực hiện các dự án đường sắt đô thị thời gian qua gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tăng vốn, kéo dài thời gian hoàn thành, thực tế vấn đề này cũng thường xảy ra ở nhiều dự án đầu tư công.
Ngoài ra, nhu cầu dự án cần sử dụng lượng xi măng, sắt thép, cát rất lớn, trong thời gian dài, trong khi đó thời gian tới có nhiều dự án xây dựng đường cao tốc, công trình xây dựng đồng loạt triển khai thi công. Thực tế, việc triển khai các dự án quan trọng quốc gia thời gian qua cho thấy, dù đã áp dụng các chính sách đặc thù về mỏ vật liệu, tuy nhiên nguồn cung nguyên vật liệu vẫn thiếu, không đáp ứng được tiến độ thi công của các dự án.
Từ những phân tích nêu trên, đại biểu đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu kỹ, đánh giá từng vấn đề cụ thể, chi tiết để có giải pháp hữu hiện khắc phục những tồn tại này để đảm bảo hoàn thành Dư án theo đúng kế hoạch đề ra.
Phát biểu góp ý tại tổ, Thượng tọa Thích Đức Thiện, Đoàn ĐBQH tỉnh Điện Biên cho rằng hiện nay các điều kiện thực hiện Dự án đã chín muồi, các nguồn lực nội tại đã được chuẩn bị đầy đủ và “con tàu cao tốc này như con rồng hiện thân, vươn lên để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”.
Tuy nhiên, đại biểu cũng dẫn bài học kinh nghiệm của các tuyến đường sắt đô thị triển khai ở Hà Nội và TP. HCM vừa chậm tiến độ, vừa đội vốn, để nêu rõ, cần thực hiện việc nghiên cứu, chuẩn bị cho dự án đường sắt tốc độ cao thật kỹ lưỡng để bảo đảm hoàn thành dự án đúng tiến độ và chất lượng.