Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ quy định 8 loại biển số xe; số loại giấy phép lái xe tăng lên 15

Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ quy định 8 loại biển số xe, trong đó biển nền trắng, chữ và số màu đen dành cho xe của tổ chức, cá nhân.

Theo Luật mới ban hành, biển xe nền màu xanh, chữ và số màu trắng cấp cho xe của cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập. Biển nền đỏ, chữ và số trắng cấp cho xe quân sự.

Biển nền vàng, chữ và số đen cấp cho xe hoạt động kinh doanh vận tải. Biển nền trắng, chữ và số màu đen cấp cho xe của các tổ chức, cá nhân trong nước.

Biển nền trắng, chữ đỏ, số màu đen, có ký hiệu “NG” màu đỏ cấp cho xe của cơ quan đại diện ngoại giao. Biển xe nền trắng, chữ màu đỏ, số màu đen, có ký hiệu “QT” màu đỏ cấp cho xe của cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế.

Biển nền trắng, chữ và số màu đen, có ký hiệu “CV” cấp cho xe của nhân viên công vụ của các cơ quan ngoại giao quốc tế. Biển nền trắng, chữ và số đen, có ký hiệu “NN” cấp cho xe của tổ chức, văn phòng đại diện, cá nhân nước ngoài.

Biển số xe máy, ôtô được quản lý theo mã định danh

Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ kế thừa những quy định gần đây như Thông tư 24/2023 về cấp, thu hồi đăng ký, biển số xe cơ giới. Cụ thể biển số xe được quản lý theo mã định danh của chủ xe là cá nhân, tổ chức; trường hợp tổ chức chưa có mã định danh thì quản lý theo mã số thuế hoặc quyết định thành lập; trừ biển số xe nền màu đỏ, chữ và số màu trắng cấp cho xe quân sự.

Theo đại diện Cục Cảnh sát giao thông Bộ Công an, biển số định danh là cách quản lý biển số theo mã định danh cá nhân của “chủ biển”. Biển vẫn được cấp cho người dân theo quy trình như hiện nay chứ không phải “dùng mã định danh cá nhân làm biển số” theo cách hiểu của nhiều người.

Biển số xe được cấp theo mã định danh sẽ giúp công tác quản lý hiệu quả hơn, có thể dễ dàng truy xuất thông tin của người và phương tiện để xác minh thông tin liên quan đến tai nạn, vi phạm giao thông, từ đó nâng cao ý thức người tham gia giao thông. Ví dụ, công an gửi thông báo vi phạm nhưng nếu chủ đã bán xe kèm theo cả biển số cho người khác thì rất khó xác minh chủ thực sự. Nếu quản lý biển theo mã định danh sẽ tránh được tình trạng này.

Người dân lấy biển số xe máy ở TP HCM. Ảnh:Phan Đăng

Người dân lấy biển số xe máy ở TP HCM. Ảnh: Phan Đăng

Với xe hết niên hạn sử dụng, hư hỏng hoặc xe đã bán thì chủ được giữ lại số biển số xe trong 5 năm để đăng ký cho xe khác thuộc sở hữu của mình. Quá thời hạn trên, số biển số xe đó sẽ bị cơ quan đăng ký xe thu hồi, cấp cho tổ chức, cá nhân khác. Trường hợp chủ xe có thay đổi thông tin về trụ sở, nơi thường trú, tạm trú thì được giữ lại số biển số định danh.

Với các biển số xe của người dân đang sử dụng hiện nay, biển 5 số sẽ mặc định là biển số định danh. Nếu người dân có nhu cầu, cảnh sát sẽ thu hồi biển 3, 4 số rồi cấp đổi sang biển 5 số để quản lý theo định danh cá nhân của chủ biển.

Khi bán xe, chủ xe phải giữ lại đăng ký, biển số, không được giao cho chủ xe mới. Chủ cũ phải nộp lại đăng ký, biển số cho công an để làm thủ tục thu hồi. Biển số này sẽ được cấp lại khi chủ xe đăng ký xe khác thuộc sở hữu của mình.

Biển số xe trúng đấu giá không được chuyển nhượng

Theo Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ, biển số ôtô cá nhân và xe kinh doanh vận tải được đưa ra đấu giá có giá khởi điểm không thấp hơn 40 triệu đồng; giá khởi điểm một biển số xe môtô, xe gắn máy không thấp hơn 5 triệu đồng. Tiền đặt trước không thấp hơn giá khởi điểm.

Khi hết thời hạn đăng ký mà chỉ một người tham gia đấu giá hoặc chỉ một người trả giá ít nhất bằng giá khởi điểm của một biển số xe thì người đó trúng đấu giá.

Người trúng đấu giá biển số xe được cấp quyết định xác nhận biển số xe; được đăng ký biển số trúng đấu giá gắn với phương tiện thuộc sở hữu của mình; được chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế xe gắn với biển số xe trúng đấu giá, song không được chuyển nhượng, tặng cho biển xe đã trúng đấu giá. Nói cách khác, nếu muốn chuyển nhượng biển số, người mua sẽ phải mua luôn chiếc xe đang gắn biển đó.

Người trúng đấu giá phải nộp đủ tiền trúng đấu giá trong 30 ngày kể từ ngày có thông báo kết quả. Sau thời hạn trên, người trúng đấu giá biển số xe không nộp hoặc nộp không đủ tiền thì biển số xe được đấu giá lại hoặc chuyển vào hệ thống đăng ký, quản lý xe và người trúng đấu giá không được hoàn tiền đặt trước.

Luật cũng yêu cầu Chính phủ quy định chi tiết về bước giá, hình thức, phương thức, trình tự, thủ tục đấu giá biển số xe.

Trước đó tháng 11/2022, Quốc hội thông qua nghị quyết thí điểm đấu giá trực tuyến biển số ôtô với giá khởi điểm 40 triệu đồng. Số tiền thu được sau khi trừ các khoản chi phí tổ chức sẽ nộp vào ngân sách Trung ương.

Từ tháng 9/2023 đến tháng 3/2024, cả nước có khoảng 15.100 biển số ôtô được đấu giá thành công, với tổng số tiền hơn 2.000 tỷ đồng, trong đó 14.000 biển số đã được khách hàng nộp 1.395 tỷ đồng.

6 trường hợp xe bị thu hồi biển số

Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ quy định việc cấp mới chứng nhận đăng ký xe và biển số xe cơ giới phải bảo đảm điều kiện như chứng nhận nguồn gốc xe, chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp, hoàn thành nghĩa vụ tài chính.

Khi thay đổi chủ xe, việc cấp giấy chứng nhận phải đảm bảo điều kiện như chứng nhận quyền sở hữu, hoàn thành nghĩa vụ tài chính, chứng nhận thu hồi đăng ký xe, biển số xe.

Người dân có thể đổi chứng nhận đăng ký xe, biển số khi giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số bị mờ, hỏng; khi cải tạo, thay đổi màu sơn xe; khi chủ xe thay đổi địa chỉ và có nhu cầu đổi chứng nhận đăng ký xe; chứng nhận đăng ký xe, biển số xe hết thời hạn sử dụng.

6 trường hợp giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe bị thu hồi gồm: Chủ xe chuyển quyền sở hữu xe; xe nhập khẩu được miễn thuế hoặc xe tạm nhập của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài mà tái xuất; khi xe đã đăng ký nhưng hồ sơ bị làm giả hoặc thay đổi trái phép số khung, số máy; xe hết niên hạn sử dụng, hư hỏng không sử dụng đường; xe bị bỏ, bị mất và chủ xe đề nghị thu hồi chứng nhận đăng ký xe, biển số xe; việc cấp đăng ký, cấp biển số xe không đúng quy định của pháp luật.

Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ sẽ có hiệu lực từ 1/1/2025.

Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ quy định 15 loại giấy phép lái xe, hạng A1 được cấp cho người lái xe máy đến 125 cc, gộp bằng lái ôtô B1 và B2 thành B.

Từ ngày 1/1/2025, Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ bắt đầu có hiệu lực với nhiều điểm mới về phân hạng giấy phép lái xe. Luật quy định 15 hạng gồm: A, A1, B, B1, C, C1, D, D1, D2, BE, C1E, CE, DE, D1E, D2E, tăng 2 hạng so với luật hiện hành.

Trong đó hạng A1 cấp cho người lái môtô hai bánh có dung tích xi-lanh đến 125 cm3 hoặc công suất động cơ điện đến 11kW. Hạng A cấp cho người lái môtô hai bánh có dung tích xi-lanh trên 125 cm3 hoặc công suất động cơ trên 11kW và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A1.

Hạng B1 cấp cho người lái môtô ba bánh và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A1.

Với ôtô, giấy phép hạng B dành cho người lái xe đến 8 chỗ (không kể chỗ lái xe); ôtô tải và chuyên dùng đến 3,5 tấn. So với Luật giao thông đường bộ 2008, hạng B đã được gộp giữa bằng B1 (cấp cho không hành nghề lái xe đi ôtô đến 9 chỗ ngồi; xe tải dưới 3,5 tấn) và bằng B2 (cấp cho người hành nghề lái xe điều khiển xe đến 9 chỗ ngồi; xe ôtô tải dưới 3,5 tấn).

Giấy phép lái xe hạng C trước đây dành cho lái xe tải từ 3,5 tấn trở lên được tách thành C1 (dành cho lái xe 3,5-7,5 tấn) và C (trên 7,5 tấn).

Hạng D trước đây cấp cho lái xe chở người từ 10 đến 30 chỗ được tách thành các hạng D1 (từ 8 đến 16 chỗ, không kể chỗ của lái xe) và D2 (từ 16 đến 29 chỗ), hạng D (trên 29 chỗ).

Hạng BE cấp cho người lái các loại xe ôtô quy định cho giấy phép lái xe hạng B kéo rơ moóc có khối lượng toàn bộ theo thiết kế trên 750 kg.

Tương tự, các hạng C1E, CE, D1E, D2E, DE được cấp cho người lái các loại xe ôtô hạng C1, C, D1, D2, D kéo rơ moóc có khối lượng toàn bộ theo thiết kế trên 750 kg.

>>Các loại giấy phép lái xe

Bằng lái xe ôtô B2. Ảnh:Phương Sơn

Bằng lái xe ôtô B2. Ảnh: Phương Sơn

Luật mới kế thừa Luật hiện hành và các văn bản hướng dẫn quy định giấy phép lái xe các hạng A1, A, B1 không thời hạn; giấy phép hạng B và hạng C1 thời hạn 10 năm; giấy phép hạng C, D1, D2, D và các giấy phép lái xe rơ moóc chỉ 5 năm.

Về độ tuổi được lái xe, Luật mới quy định người đủ 16 tuổi trở lên được điều khiển xe gắn máy (dung tích dưới 50 cm3; động cơ điện không lớn hơn 4 kW); người đủ 18 tuổi trở lên được cấp giấy phép lái xe hạng A1, A, B1, B, C1.

Người đủ 21 tuổi trở lên được cấp giấy phép lái xe hạng C, BE; người đủ 24 tuổi trở lên được cấp giấy phép lái xe hạng D1, D2, C1E, CE; người đủ 27 tuổi trở lên được cấp giấy phép lái xe hạng D, D1E, D2E, DE.

Lý giải việc tăng số loại giấy phép lái xe từ 13 lên 15, thượng tá Tạ Thị Hồng Minh, Phó trưởng phòng Hướng dẫn tuyên truyền và điều tra, giải quyết tai nạn giao thông, Cục Cảnh sát giao thông, Bộ Công an, cho biết hệ thống giấy phép lái xe quy định tại Luật Giao thông đường bộ 2008 có nhiều điểm không tương thích với phân hạng của Công ước Viên năm 1968 và nhiều quốc gia.

Cụ thể, nhiều phân hạng bằng lái xe máy và ôtô của Việt Nam không phù hợp về dung tích xi lanh, số chỗ ngồi, khối lượng phương tiện. Việt Nam cũng chưa phân hạng với xe điện, ôtô mini buýt, xe tải cỡ nhỏ. Tên gọi các hạng bằng lái cũng chưa phù hợp với chuẩn thế giới. Bộ Công an đề xuất thay đổi hạng giấy phép lái xe nhằm tương thích với Công ước Viên 1968 và thế giới.

Theo Luật mới, giấy phép lái xe máy, ôtô được cấp trước ngày Luật có hiệu lực thi hành được tiếp tục sử dụng bình thường theo thời hạn ghi trên giấy phép, tuy nhiên khuyến khích người dân đổi giấy phép lái xe không thời hạn được cấp trước ngày 1/7/2012.

Khi người có giấy phép lái xe đã được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực có nhu cầu đổi, cấp lại sẽ được áp dụng theo nguyên tắc sau: Người có giấy phép hạng A1 (theo Luật giao thông đường bộ 2008) được chuyển sang hạng A, song chỉ được điều khiển xe môtô đến 175 cm3 hoặc động cơ điện đến 14 kW. Hạng A2 được đổi sang hạng A; hạng A3 được đổi sang hạng B1.

Người có giấy phép hạng B1 số tự động được đổi, cấp lại sang hạng B, song chỉ được điều khiển ôtô số tự động; hạng B1, B2 được đổi sang hạng B và C1; hạng C được đổi cùng loại; hạng D được đổi, cấp lại sang hạng D2; hạng E được đổi, cấp lại sang hạng D; hạng FB2 được đổi, cấp lại sang C1E…